Gioan thật nhẹ nhàng khi mô tả 04 lần đức Giê-su hiện hình sau khi ra khỏi mồ: lần một với Maria Mác-đa-la, 02 lần sau với các môn đệ tụ họp trong nhà, và lần cuối với một số môn đệ trên bờ hồ Ti-bê-ri-a. Chẳng có gì hoành tráng cả, không hào quang chói lọi, không uy nghi rực rỡ…, rất là đời thường, có luôn cả cảnh ăn uống bình dị nữa. Thế nhưng hình như có một điều gì đó hết sức phi thường trong cái tầm thường, một sức sống hoàn toàn mới bừng lên trong bầu không khí lạnh lẽo của thương tích và chết chóc.
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật II Phục Sinh nói về hai lần Chúa hiện hình với các môn đệ đang tụ họp trong nhà. Hình như ngay từ thời xa xưa đoạn văn này đã có một tầm quan trọng đặc biệt đối với đức tin của các Ki-tô hữu tiên khởi. Niềm tin của các môn đệ, đặc biệt của Tô-ma là đề tài của hai lần hiện hình này. Các môn đệ, sau khi được xem các dấu đinh nơi tay và cạnh sườn Đấng Phục Sinh, đã tin thật rằng Thầy Giê-su từng chết nhuốc khổ trên cây thập tự và được tẩm liệm mai táng trong nấm mồ đá, nay đã sống lại thật rồi. Tông đồ Tô-ma còn được Đấng Phục Sinh mời gọi đích danh: “đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy.”
Tôi vẫn thường tự hỏi: nội dung câu tuyên xưng đức tin của tông đồ Tô-ma “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” thực sự mang nội dung gì? Ông muốn tuyên xưng rằng: Thầy Giê-su quả đã sống lại, hay Giê-su là Thiên Chúa quyền uy thống trị, hay một điều gì khác? Hơn nữa việc Chúa phục sinh cho các môn đệ xem, và mời gọi Tô-ma cách đặc biệt chạm tay vào các lỗ đinh và vào vết thương cạnh sườn Người là có chủ đích gì? Nếu chỉ là để xác nhận thực Đấng đã chết nay lại sống lại, thì hẳn niềm tin này sẽ làm cho các môn đệ hết sức kinh hãi; các ông đã chẳng người bán, kẻ chối, kẻ khác thì trốn chạy trước cái chết của Người là gì? Có thể phần nào là như vậy chăng vì trong lần hiện hình nào Người cũng khởi đầu bằng câu chào: “Bình an cho anh em”? Còn nếu để minh định Người là Đức Chúa quyền uy theo kiểu Cựu Ước thì thực tế cho thấy các biểu hiện của những lần hiện hình này không có nét gì là vinh quang hết. Đàng này tác giả Gio-an lại cho biết: ‘các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa’. Hình như trong các lần hiện hình này Đức Giê-su đang muốn xây dựng nơi các ông một niềm tin mang nội dung bình an nhưng sâu sắc hơn nhiều: niềm tin tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Quả thực, để cụ thể hóa niềm tin rất mới mẻ và thiết yếu đó, Người không những đã muốn các ông chạm vào các dấu đinh – bằng chứng của tình yêu cứu độ – mà còn trao vào tay các ông một sứ mệnh mới, rồi sai các ông ra đi loan truyền nó.
Sức sống của niềm tin vào tình yêu tha thứ được xác định là Thánh Thần. Chính Thần Khí này đã đưa Giê-su vào trần gian và đã hướng dẫn toàn bộ bước đường đời của Người, đã dẫn đưa Giê-su tới hiến tế thập giá đồng thời cũng làm cho Giê-su phục sinh. Cũng Thánh Thần này từ nay sẽ được ban cho các môn đệ và tất cả mọi kẻ tin: “Người thổi hơi vào các ông và bảo: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” Thế là từ nay, trong niềm tin vào Giê-su Ki-tô phục sinh, tất cả các môn đệ đều nhận được một sức sống mới và một sứ mệnh mới. Họ trở thành những con người mới, không chỉ vì họ sẽ sống vẹn sạch tinh tuyền, nhưng chính là vì từ nay họ được thông phần sâu xa vào tình yêu cứu độ của Đức Giê-su, Đấng đã chết và phục sinh. Cùng với sức sống mới này, họ được trao cho một sứ mệnh quan trọng: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Nếu trước đây khi nói cùng câu này cho tông đồ Phê-rô (Mt 16,19) Đức Giê-su có thể ngụ ý về một quyền bính nào đó, thì bây giờ khi quyền này được ban cho hết mọi môn đệ và mọi tín hữu thì ý nghĩa của nó đã trở nên rõ ràng hơn: sau khi nhận lãnh Thánh Thần tình yêu, sứ mệnh của môn đệ phải là tha và cầm giữ như chính Đức Ki-tô đã từng làm. Điều này có nghĩa là từ nay sứ mệnh đích thực của các ông là mang đến cho trần gian một nền công lý mới: công lý của nhân từ và tha thứ như chính Đức Ki-tô thập giá và phục sinh đã tha, và của cầm giữ xét xử như chính Đấng cứu độ đã cầm giữ. Tắt một lời, đó là nền công lý của lòng từ bi nhân ái xót thương, thứ công lý không thể chối cãi của Thập giá và Phục sinh, thứ công lý mà chỉ những ai đón nhận Thánh Thần tình yêu mới có thể có. Các môn đệ của Đức Ki-tô Phục Sinh và mọi Ki-tô hữu, là những người duy nhật trên trần được trao vào tay thứ công lý đó, để từ nay cùng với Người họ thi hành việc xét xử trần gian.
Lúc này tôi chân thành muốn chúc mừng các anh chị em tân tòng. Ngoài việc nhờ bí tích rửa tội được thanh tẩy nên tinh trắng, anh chị em đã nhận được Thánh Thần tình yêu, đã được ban cho một thứ quyền uy vượt lên trên mọi uy quyền, đó là quyền uy của lòng thương xót và nhân ái của Đấng Phục Sinh. Giữa thế trần tội lỗi và lầm lạc, kể từ khi gia nhập vào cộng đoàn Hội Thánh là đoàn thể gồm những người được Đấng đã chết và sống lại cứu rỗi, anh chị em được trao cho quyền cầm cân nảy mực xét xử nhân loại, không với sự công minh nghiêm khắc nhưng với lòng nhân ái xót thương. Chúa Nhật Áo Trắng hôm nay, ngày của anh chị em tân tòng, được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đặt làm ngày của Lòng Thương Xót Chúa thật chí lý lắm thay! Nếu Thập giá và Phục sinh chúng ta vừa cử hành là biểu hiện rõ ràng nhất của lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa, thì những ai tuyên xưng niềm tin này qua phép rửa tội cũng đương nhiên phải trở thành con cái của lòng từ bi nhân hậu đó.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin thổi hơi Thánh Thần tình yêu vào con, để con cũng có quyền tha và cầm giữ như Chúa – Đấng Cứu Độ. Hơn nữa, là linh mục của Hội Thánh Chúa, xin cho con biết luôn trở thành tiếng nói cho mọi người trần thế, nhất là những người tội lỗi nhất, về thứ công lý mới này của Thập giá và Phục sinh. Xin cho con trong mọi hoàn cảnh luôn trở thành dấu chỉ và người mang đến cho nhân loại thứ quyền lực và công lý mới của Thập giá: quyền lực và công lý của lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB